Một hài nhi Do Thái, sinh trong động đá Bê Lem, oe oe khóc giữa đêm đông giá lạnh, vừa mới chào đời được mấy hôm, đã bị truy nã như một tên hoán nghịch, cha mẹ phải ẵm vào rừng, lén lút trốn sang nước ngoài trú ẩn!
Cơn giông tố đã qua, hài nhi trở lại quê nhà, lớn lên trong khung cảnh một gia đình thợ mộc, làm quen với mảnh cưa súc gỗ, ban ngày đem mồ hôi đổi lấy bánh nuôi thân, tối đến đặt mình trên manh chiếu ngủ cho qua đêm, để hôm sau tra tay làm việc cũ.
Trong bao nhiên năm như vậy, GIÊSU đã sống một đời bình dân như muôn đời bình dân khác. Tuy nhiên đời bình dân ấy, ngay lúc chớm nở, đã thấp thoáng ánh diệu kỳ: Có Thiên Thần ca hát trước hang, có vương khách từ phương xa đến bái yết. Tới lúc ba mươi tuổi, Ngài tung ra từng loạt việc dị thường. Ngài dọc ngang đây đó, khi đỉnh núi, lúc ghềnh sông, rảo khắp thôn quê tới thành thị, tuyên bố những lời lẽ chưa thấy trong triết học, giảng thuyết những luật các nhà luân lý chuyên khoa chưa nghĩ đến. Ngài xưng mình là “Tiên Tri” là “Sứ Giả của Trời” là “Vị Cứu Tinh” và hơn nữa là “Con Thiên Chúa”. Ðồng thời từng trăm nghìn phép lạ ở tay Ngài rơi xuống: Ngài cho kẻ què đi, kẻ điếc nghe, kẻ câm nói, kẻ chết sống lại !... Ðạo lý cao siêu với những việc dị thường ấy lôi cuốn dân đi theo, nhiều người xin làm môn đệ, cam kết với Ngài: Một lòng trung tín sống thác không rời.
Nhưng đột nhiên, thiên hạ phải bỡ ngỡ hoang mang, vì Ngài bị bắt, bị tra khảo, bị vùi dập dưới những cực hình nhuốc hổ, rồi bị giết thảm thương trên Thập Giá!
Nhiều người đã tưởng Ngài bại trận, đời tiên tri và cứu thế của Ngài mất hút trong đau thương. Nhưng đoàn Môn Ðệ lại nhận Ngài là đắc thắng, một cuộc đắc thắng kỳ diệu của mãnh lực tình yêu. Và hơn nữa, tin Ngài là Thiên Chúa, các ông đã lặn lội khắp nơi lao mình vào đau khổ, đem hết máu đào ra minh chứng đạo lý và sứ mệnh của Ngài, khiến người trong muôn nước, từ vua quan đến thứ dân, phải tin nhận Ngài là Thiên Chúa, sấp mình thờ lạy và chúc tụng Ngài là vị cứu tinh thế giới.
*
Ngài chết đi rồi sống lại.
*
Ngài sống lại rồi lên Trời.
*
Ngài chính là Chúa Trời giáng thế.
Xưa nay bao nhiêu khối óc thông minh đã khảo cứu đời Ngài, đều phải công nhận như vậy. Và từ lâu đều công nhận đó là Ánh Sáng của đời tôi. Tôi đã theo và nhận Ngài là con đường hạnh phúc đích thực. Nhờ Ngài, đời tôi đã chất chứa những ngày vui. Bởi vậy hôm nay trước bàn thờ kính ái, thắp nén hương lòng, lau ngòi bút tục, tôi chép lại lịch sử trần gian của Ngài, để cảm tạ Ngài đã hướng dẫn trong đời sống, và để đồng bào yêu quí của tôi hiểu rõ thân thế Ngài hơn, hầu có thể kiểm nhận Lời Ngài nói: “Ta là Ðường, là Sự Thật và là Sự Sống “